Gần 80.000 MW nguồn điện mới sẽ được đầu tư trong vòng 10 năm tới

Sáng ngày 28/09/2020 tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo giới thiệu về Đề án “Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045” (gọi tắt là Quy hoạch điện VIII) do Bộ Công Thương phối hợp với Viện Năng lượng tổ chức.
Quang cảnh buổi hội thảo
Quang cảnh buổi hội thảo

Việc lập Quy hoạch điện VIII được mong đợi sẽ đề ra các giải pháp toàn diện để giải quyết vào tháo gỡ các nút thắt hiện nay trong phát triển điện lực.

Báo cáo cho thấy, tốc độ tăng trưởng phụ tải giai đoạn 2021-2030 được dự báo vẫn ở mức cao, khoảng 8,6% giai đoạn 2021-2025 và 7,2% trong giai đoạn 2026-2030. Nhiều kịch bản phát triển nguồn điện đã được nghiên cứu, trong đó, kịch bản phát triển nguồn điện tối ưu là kịch bản đáp ứng các mục tiêu đề ra của Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, hướng tới thân thiện với môi trường và khai thác tối đa lợi ích từ các nguồn năng lượng tái tạo.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng cho biết: “Trong Đề án quy hoạch tổng sơ đồ Điện 8 này Bộ Công Thương đã chỉ đạo Viện Năng lượng đưa ra nhiều giải pháp để làm sao triển khai tốt hơn các dự án điện đặc biệt là trong bối cảnh khác so với các năm trước đây”.

Cũng theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng, Chương trình phát triển nguồn điện giai đoạn tới năm 2030 sẽ đưa tổng công suất nguồn điện tăng thêm so với năm 2020 khoảng gần 80.000 MW, trong đó các nguồn điện lớn (các nhà máy nhiệt điện than, khí và LNG dự kiến sẽ tăng thêm khoảng trên 30.000 MW, các nhà máy điện gió onshore, offshore và điện mặt trời dự kiến tăng thêm khoảng gần 30.000 MW). Phần lớn các nguồn điện này đều tập trung nằm xa trung tâm phụ tải. Vì vậy, công tác phát triển lưới truyền tải để giải tỏa công suất các nguồn điện này đặt ra nhiều nội dung cần xem xét và nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu của Đề án chỉ ra rằng xu hướng truyền tải điện sẽ có nhiều thay đổi trong thời gian tới. Thay vì truyền tải điện từ miền Bắc vào miền Nam như trước đây, chiều truyền tải có xu hướng thay đổi dần theo chiều ngược lại. Chính vì vậy, việc phát triển hợp lý, hài hòa, lưới điện truyền tải, đảm bảo vận hành ổn định hệ thống cần phải được nghiên cứu và xem xét cụ thể.

Ông Nguyễn Mạnh Cường – Phó trưởng phòng Phát triển Hệ thống điện (Viện Năng lượng) – Trưởng nhóm nghiên cứu phát triển lưới điện tại Quy hoạch Điện 8 cho biết, Chương trình phát triển lưới điện sẽ được xây dựng để đảm bảo đáp ứng được tiêu chí N-1, riêng đối với các thành phố lớn, mật độ phụ tải cao, lưới điện sẽ được xây dựng để đáp ứng tiêu chí N-2. Việc phát triển lưới điện được thiết kế đảm bảo giải tỏa các trung tâm nguồn lớn, các trung tâm năng lượng tái tạo, các nguồn điện gió xa bờ quy mô lớn… Lưới điện nông thôn dần được cải tạo nâng cấp, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân. Tuy nhiên, ông Nguyễn Mạnh Cường cũng cho rằng, việc xây dựng và nâng cấp lưới điện làm sao để đồng bộ với các dự án nguồn điện là vấn đề quan trọng phải được đặt ra, nhất là khi tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo trong Quy hoạch Điện 8 lớn.

“Đối với quan điểm điện truyền tải phải đi trước một bước thì phải được thể hiện ở lộ trình xây dựng lưới truyền tải thông qua các danh mục trạm biến áp và đường dây xây mới và cải tạo, do đó Bộ Công Thương và ngành điện sẽ chủ động điều hành trong quá trình đầu tư xây dựng để biết trước được sẽ như thế nào.. Bởi vì việc xây dựng một trạm biến áp hay đường dây truyền tải ở Việt Nam không chỉ tốn tiền mà còn tốn thời gian. Theo thống kê của chúng tôi thì 1 trạm biến  áp 220kV mất khoảng 5 năm, còn đường dây phải 6 năm mới xong, trong khi 1 nhà máy điện mặt trời có khi chỉ 1 năm là xong. Cho nên việc đầu tư lưới truyền tải đòi hỏi thời gian rất lâu và cần phải có lộ trình, kế hoạch từ rất sớm…”.

Theo Bộ Công Thương, thách thức đặt ra để có thể thực hiện tốt Quy hoạch điện VIII cũng rất lớn. Nhu cầu điện vẫn tăng trưởng với tốc độ cao nhưng các nguồn năng lượng sơ cấp ngày càng khan hiếm, để đảm bảo cung ứng điện tới năm 2030, Việt Nam dự kiến phải nhập khẩu khoảng 1,2 triệu tấn LNG, 35,1 triệu tấn than vào năm 2025 và tăng dần tới 8,5 triệu tấn LNG và 45 triệu tấn than vào năm 2030.Đây là những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh cung cấp điện.

Nhu cầu vốn đấu tư hàng năm cho chương trình phát triển nguồn và lưới điện lên tới khoảng 13 tỷ USD/năm giai đoạn 2021-2030 trong khi yêu cầu ngày càng cao về môi trường của các tổ chức quốc tế trong việc xem xét các khoản tín dụng hỗ trợ phát triển nguồn và lưới điện cũng đặt ra nhiều áp lực và thách thức cho việc thực hiện thành công Quy hoạch điện VIII.

Để giải quyết vấn đề này, nhiều cơ chế chính sách đã được đề xuất, trong đó có “cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án điện”, “cơ chế xã hội hóa lưới điện truyền tải”,… để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển ngành điện.

Cũng theo Bộ Công Thương, Chính phủ đã có chủ trương cụ thể về triển khai nhập khẩu điện từ các nước trong khu vực. Nhiều biên bản ghi nhớ đã được ký giữa Việt Nam và các nước láng giềng về khả năng nhập khẩu điện tới 2030. Tuy nhiên, quá trình triển khai nhập khẩu điện chưa đạt được kết quả như mong đợi, làm ảnh hưởng tới việc liên kết lưới điện. Chính vì vậy, trong Đề án lần này, vấn đề liên kết lưới điện đã được Bộ Công Thương nghiên cứu kỹ lưỡng và đề xuất các giải pháp triển khai nhằm hiện thực hóa các chủ trương liên kết lưới điện của Chính phủ.

Dự kiến tới năm 2030, công suất đặt toàn hệ thống dự kiến đạt khoảng 138.000 MW và tới năm 2045 khoảng 302.000 MW, trong đó ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng từng vùng/miền bảo đảm an toàn hệ thống; nhiệt điện than có xu hướng giảm dần, tăng nhanh nhiệt điện khí trong cơ cấu phát triển nguồn điện. Mức phát thải khí CO2 sẽ giảm dần, đáp ứng các chỉ tiêu mà Việt Nam đã kết kết với quốc tế.

Nguyên Long – EVN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *